Quyền lực nhà nước – một loại quyền lực đặc biệt trong xã hội

     Quyền lực trong xã hội có cấu trúc rất phức tạp, bao gồm nhiều loại quyền lực khác nhau như quyền lực dòng họ, quyền lực tôn giáo, quyền lực đạo đức, quyền lực xã hội, quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị… Các loại quyền lực đó đồng thời tồn tại đan xen, thâm nhập vào nhau và ảnh hưởng lẫn nhau tạo thành một cấu trúc phức hợp của quyền lực trong xã hội. Trong số các loại quyền lực trong xã hội, đáng chú ý là ba loại quyền lực: quyền lực chính trị, quyền lực xã hội (còn gọi là quyền lực công) và quyền lực nhà nước. Trong điều kiện xã hội có giai cấp và nhà nước, ba loại quyền lực đó gắn kết, đan xen vào nhau, đồng thời mỗi loại quyền lực có những đặc trưng riêng.

Quyền lực nhà nước

     Quyền lực xã hội xuất phát từ ý chí của mọi thành viên trong xã hội, là sợi dây gắn kết các thành viên trong xã hội, được hình thành và sử dụng phục vụ cho lợi ích toàn xã hội. Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp, tập đoàn xã hội hay liên minh giữa chúng, nó nói lên khả năng của một giai cấp thực hiện lợi ích khách quan của mình. Còn quyền lực nhà nước, về mặt hình thức là quyền lực công, nhưng bản chất bao giờ quyền lực công đó cùng bị chi phối bởi một giai cấp hoặc lực lượng xã hội nhất định. Như vậy, quyền lực nhà nước là hình thức biểu hiện cơ bản và tập trung của quyền lực công và quyền lực chính trị. Trong xã hội hay một cộng đồng quốc gia – dân tộc, quyền lực chính trị và quyền lực xã hội không ở đâu thể hiện một cách cơ bản và tập trung khác ngoài quyền lực nhà nước. Trên ý nghĩa đó, Ph. Ăngghenviết: “ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào còn thực hiện chức năng xã hội đó”.

     Quyền lực Nhà nước ra đời đã dẫn tới những biến chuyển trong tổ chức xã hội loài người: luật tục trở thành luật pháp, dân cư trở thành công dân, lãnh thổ tộc người (bộ lạc, liên minh bộ lạc) trở thành quốc gia. Trong ba nhân tố hợp thành nhà nước là quyền lực chính trị, dân cư và lãnh thổ thì quyền lực chính trị đóng vai trò quyết định. Nhà nước bắt đầu từ đâu thì gắn với nó là nhu cầu tổ chức quyền lực nhà nước, bao gồm cả tổ chức quyền lực nhà nước theo “chiều ngang” và tổ chức quyền lực nhà nước theo “chiều dọc”, nhằm đáp ứng yêu cầu cả đối nội lẫn đối ngoại.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: van hoa chinh tri

Mối quan hệ giữa Nhà nước và Đảng Cộng sản cầm quyền

     Trong quan hệ giữa Nhà nước và Đảng Cộng sản cầm quyền, điều dễ thấy là Nhà nước và Đảng đều có chung nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản là nguyên tắc tập trung dân chủ. Sự trùng hợp này bắt nguồn từ sự thống nhất về bản chất và mục tiêu giữa hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý của hai thực thể chính trị là Đảng đóng vai trò “hạt nhân lãnh đạo” và Nhà nước là “trụ cột” của hệ thống chính trị. Tuy nhiên, do vị trí và chức năng của Đảng và Nhà nước trong hệ thống chính trị là khác nhau, nên việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tổ chức Đảng, tổ chức Nhà nước cũng như trong xử lý mới quan hệ của mỗi tổ chức với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị không thể giống nhau.

     Mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng cầm quyền là mối quan hệ vừa mang tính phụ thuộc, vừa mang tính độc lập. Tính phụ thuộc được xác định bởi vai trò lãnh đạo và địa vị cầm quyền của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước, định hướng chính trị cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước ở các cấp, các ngành. Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là sự lãnh đạo chính trị, được thực hiện bằng phương thức đã xác định trong Cương lĩnh của Đảng. Tính độc lập của Nhà nước trong mới quan hệ với Đảng dược xác định bởi rất nhiều yếu tố. Một là, Nhà nước không chỉ là tổ chức do Đảng sáng lập, là công cụ của Đảng, mà trong bản chất sâu xa, Nhà nước là một tổ chức công quyền, với ý nghĩa là một hình thức tổ chức quyển lực của nhân dân, do nhân dân tự tổ chức, hoạt động vì lợi ích của nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Hai là, để lãnh dạo và quản lý, Đảng và Nhà nước đều phải có quyền lực. Quyền lực của Đảng và quyền lực Nhà nước tuy có mới quan hệ hữu cơ, đều bắt nguồn từ sự ủy quyền của nhân dân, nhưng là hai loại quyền lực khác nhau, được vận hành bởi những phương thức khác nhau. Đảng thực hiện chức năng lãnh đạo chính trị bằng quyền lực chính trị theo phương thức được quy định trong Cương lĩnh và Điều lệ Đảng. Quyền lực nhà nước được quy định trong Hiến pháp và pháp luật do bộ máy nhà nước thực hiện trên cơ sở phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. 

Đảng Cộng sản cầm quyền

Trong điều kiện của chế độ dân chủ và Nhà nước pháp quyền, toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị đều phải triệt để tuân thủ các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Do vậy, tổ chức và hoạt động của Đảng cũng phải trong khuôn khổ, tuân thủ và tôn trọng Hiến pháp và pháp luật liên thân Nhà nước thực hiện việc quản lý, điều hành đất nước bằng luật pháp cũng phải trong khuôn khổ của luật pháp quy định. Vì vậy, Đảng không thực hiện quyền lực nhà nước, không làm thay Nhà nước, không áp đặt nguyên tắc hoạt động của mình cho Nhà nước trái với những quy định của pháp luật. Phân biệt rõ vấn để này sẽ góp phần đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, lấn sân, bao biện làm thay, áp đặt, mất dân chủ, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng và làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước như trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng đã từng chỉ ra. Nguyên tắc tập trung dân chủ với tư cách là nguyên tắc cơ bản của quản lý nhà nước thể hiện ở các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước Trung ương và địa phương; quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới; giữa thủ trưởng cơ quan, đơn vị với cán bộ, nhân viên; ở chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; ở chế độ ban hành các quy định của các cơ quan nhà nước; ở cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý các công việc trong bộ máy nhà nước; ở mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân… Nguyên tắc này cần được quán triệt trong việc xây dựng pháp luật, trong quy chế tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt là trong việc kết hợp sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của Trung ương với phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo của địa phương, cơ sở, khắc phục cả hai khuynh hướng phân tán cục bộ và tập trung quan liêu đang diễn ra hiện nay.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: văn hóa chính trị là gì

Mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội

     Về mới quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội, các đoàn thể nhân dân cần nhận thức rõ: đây là quan hệ giữa những tổ chức, bộ phận cấu thành hệ thống chính trị, cùng thực thi đường lối, chủ trương của Đảng, thi hành Hiến pháp, pháp luật bằng những phương thức khác nhau, đều là công cụ dể đảm bảo quyền lực của nhân dân. Tuy nhiên, Nhà nước là tổ chức công quyền, được tổ chức và hoạt dộng theo nguyên tắc tập trung dân chủ và thống nhất quyền lực; đồng thời có sự phân công, phối hợp trong thực hiện các quyển lập pháp, hành pháp và tư pháp, dưới sựlãnh đạo của Đảng, chỉ tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước không phải là một thành viên của Mặt trận.

     Theo hiến định, Mặt trận là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, có trách nhiệm xây dựng, giám sát, bảo vệ chính quyền. Quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận là quan hệ phối hợp để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, trên cơ sở quy chế phối hợp công tác do ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan nhà nước hữu quan từng cấp ban hành chứ không phải chỉ đạo hoặc hiệp thương dân chủ với Mặt trận. Hiến pháp năm 1992 chế định quyền của Chủ tịch ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quôc Việt Nam, Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được mời tham sự các phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan (Điều 111). Tại các cấp địa phương, Chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người dùng đều các đoàn thể nhân dân ở các cấp được mời tham dự các cuộc họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự Hội nghị ủy ban nhân dân cùng cấp khi bàn cốc vấn đề có liên quan. Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân thực hiện chế độ báo cáo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyển và phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dânđộng viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương (Điều 125).

các tổ chức chính trị – xã hội

     Quan hệ chính trị giữa Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội là quan hệ giữa các chủ thể ởcùng một cấp độ. Cùng tồn tại trong một hệ thống chính trị thống nhất, cùng chịu sự lãnh đạo của Đảng, nhưng các thiết chế chính trị này lại độc lập với nhau. Chúng khác nhau về nguồn gốc, bản chất, nhiệm vụ, chức năng và các hình thức, phương pháp hoạt động. Mối quan hệ giữa các chủ thể này phải là các mối quan hệ bình đẳng, không phải là mới quan hệ lãnh đạo và bị lãnh đạo. Trước đây, trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, các tổ chức chính trị – xã hội trong một mức độ nào đó đã bị “hành chính hóa”. Nhà nước chi phối cả về tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội thông qua việc cung cấp cán bộ, kinh phí, tạo mọi điều kiện để các tổ chức này hoạt động. Thực tế cho thấy, do hoạt động trong sự bao cấp tuyệt đối, sự quản lý “toàn diện” của Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội trở nên thụ động, ỷ lại, giảm đi tính độc lập, sáng tạo của mình, trở thành cái “bóng” của Nhà nước, tính quần chúng bị hạn chế. Để khắc phục tình trạng này, đòi hởi phải xác định rõ ràng về mặt luật pháp mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội. Mặt khác, Nhà nước phải đổi mới cơ chế phân bổ và quản lý ngân sách, công tác cán bộ đối với tất cả các tổ chức chính trị – xã hội, đảm bảo các tổ chức này có vị trí độc lập tương đối. Các tổ chức chính trị – xã hội cũng phải vươn lên, đổi mới vể tổ chức và hoạt động cho phù hợp với cơ chế mới, tăng cường tính tự chủ về các phương diện, trước hết là tự chủ đề tài chính và đội ngũ cán bộ. Về phần mình, Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội, tạo ra các cơ sở và điều kiện pháp lý đảm bảo cho các tổ chức này thật sự là các tổ chức tự nguyện của quần chúng, hoạt động phục vụ lợi ích hợp pháp của quần chúng, thực hiện quyển dân chủ của nhân dân.


Trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị

     Tiếp tục đổimới hệ thống chính trị, đổimới sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

     Trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị là đổimới tổ chức, phương thức hoạt động của các bộ phộn cấu thành. Đặc biệt cần coi trọng đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) trong hệ thống hành chính 4 cấp ở nước ta. Nhấn mạnh vai trò của cơ sở thực chất là nhấn mạnh vai trò của nhân dân, tác dụng to lớn và quyết định của nhân dân trong xây dựng chế dộ mới, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền lực của nhân dân. Đây cũng là thể hiện nhận thức mới của Đảng ta về đổi mới hệ thống chính trị.

     Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới. Vì vậy, đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ hóa xã hội phải gắn liền với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới. Trong đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, vấn đề mấu chốt nhất và khó khăn nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, khắc phục cả hai khuynh hưống thường xảy ra trong thực tế: hoặc là Đảng bao biện làm thay, hoặc là buông lởng sự lãnh đạo của Đảng. Do đó cần:

- Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và của cả hệ thống chính trị, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, cơ chê vận hành, lề lối làm việc.

 - Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chê hóa nguyên tắc tập trung dân chủ và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Hoàn thiện quy chế, quy trình về công tác tổ chức, bảo đảm mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng.

đổi mới hệ thống chính trị

- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.

     Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách, định hướng chính trị; lãnh đạo bằng sự tiên phong, gương mẫu của đảng viên và các tổ chức đảng; lãnh đạo bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước; thông qua việc phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tạo điều kiện cho Nhà nước phát huy hiệu lực và hiệu quả hoạt động, đảm bảo cho đường lối, nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống; kết hợp chặt chẽ việc lãnh đạo bằng tổ chức với lãnh đạo thông qua cá nhân đảng viên theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nêu cao vai trò trách nhiệm của đảng viên giữ các cương vị, chức trách trong bộ máy nhà nước. Đảng không bao biện, làm thay Nhà nước, Đảng hoạt dộng trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

- Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận, các tổ chức chính trị – xã hội.

     Thực hiện yêu cầu trên nhằm tăng cường sự lãnh đụo của Đảng và phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Một trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Đảng lãnh đạo Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội bằng phương thức dân chủ để thực hiện dân chủ, trong đó có sự kết hợp nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng với hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận; bằng sức mạnh tổ chức và chất lượng cán bộ; bằng tạo điều kiện, thúc đẩy các tổ chức hoạt động và tăng cường kiểm tra; bằng nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu, nêu gương của cán bộ; bằng sự đoàn kết, hợp tác, phối hợp và hỗ trợ của tổ chức Đảng các cấp cùng với tổ chức đoàn thể cùng cấp; bằng việc thường xuyên nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để phát hiện và nhân rộng điển hình tiên tiến, thúc đẩy phong trào quần chúng phát triển.

     Để Mặt trận Tổ quốíc và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, Đảng cần ban hành chỉ thị quy định rõ quyền và trách nhiệm của các tổ chức trên với tư cách là chủ thể thực hiện giám sát và phản biện xã hội, nghĩa vụ của các đối tượng chịu sự giám sát và phản biện xã hội, nội dung, phương thức giám sát, phản biện xã hội.

     Cần thể chế hóa đồng bộ các chủ trương của Đảng về dân vận, tăng cường sự phối hợp công tác giữa Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân. Thực hiện quy chế hóa sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, coi trọng lãnh đạo việc tổ chức thực hiện và đôn đốc kiểm tra, tổng kết thực tiễn về sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: quyền lực chính trị ở việt nam

Một số kiến nghị giúp xây dựng củng cố, hoàn thiện nhà nước

- Coi trọng việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện Nhà nước, đổi mới quản lý của Nhà nước đối với các tổ chức chính trị – xã hội

     Nhà nước là rường cột của chế độ, là sức mạnh của quyền lực nhân dân, là thiết chế thông qua đó Đảng thể hiện và thực hiện vai trò lãnh đạo đối với xã hội. Vấn đề đặt ra là phải nhanh chóng xây dựng Nhà nước ta trở thành một nhà nước pháp quyền mạnh, có thực lực, thực quyền. Đó là một Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, có định hướng chính trị đúng, có sức mạnh tối thượng của pháp luật công minh, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, có đội ngũ công chức, viên chức trung thành với chế độ, tận tụy phục vụ nhân dân, có phẩm chất đạo đức tốt, kỷ luật công vụ nghiêm, nghiệp vụ, chuyên môn thành thạo. Đó là một nhà nước trong sạch, vững mạnh, được lòng nhân dân, có khả năng phòng chống được tệ quan liêu, tham nhũng. Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

     Để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ và hiệp thương dân chủ, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể nhân dân, các cơ quan nhà nước cần tập trung nghiên cứu, thể chế hóa kịp thời các chủ trương của Đảng về công tác vận động quần chúng, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của các Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, nhất là cơ chế để các tổ chức, đoàn thể trên thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội.

     Cơ quan quản lý nhà nước các cấp ởtrung ương và địa phương xây dựng quy chế làm việc hoặc chương trình phối hợp hoạt động với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, tạo điều kiện cung cấp thông tin về các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, làm cơ sở để các đoàn thể đề ra phương hướng, nhiệm vụ hoạt động sát với thực tiễn, thiết thực, hiệu quả.

     Xây dựng cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để các Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân phát huy quyền dộc lập, tự chủ về tổ chức, biên chế và tài chính; đảm bảo tính sáng tạo, chủ động trong hoạt động, tổ chức các phong trào, chương trình hoạt động. Quốc hội, Chính phủ cải cách việc phân bố kinh phí ngân sách hàng năm phù hợp với đặc điểm, tính chất hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội, khắc phục cơ chế xin – cho và tình trạng phân bổ theo đầu cán bộ như kinh phí hành chính. Nhà nước nghiên cứu ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đóng góp, tài trợ cho hoạt động của các đoàn thể, đồng thời tạo điểu kiện để các tổ chức chính trị – xã hội có thêm các nguồn thu từ các hoạt động kinh doanh, dịch vụ hợp pháp.

hoàn thiện nhà nước

- Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân

     Xây dựng hệ thống chính trị thực sự trở thành cơ chế tổng thể đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đòi hỏi phải tiếp tục đổi mói tổ chức và phương thức hoạt động của tất cả các bộ phận hợp thành. Do đó, cùng với đổi mới Đảng và Nhà nước, phải đổi mới mạnh mẽ Mặt trận và các đoàn thể, đảm bảo cho các tổ chức này nâng cao chất lượng hoạt động trên cơ sở thực hiện đúng chức năng của mình, không lẫn lộn với các chức năng, nhiệm vụ đích thực của Nhà nước, tập trung vào hoạt động tư vấn, phản biện, giám sát xã hội đối với lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Chỉ khi nào thực hiện được vai trò đó thì Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân mới khắc phục được tình trạng quan liêu hóa, hành chính hóa và hình thức hóa. Bản thân Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phải chủ động, nỗ lực tự đổi mới, đồng thời Đảng, Nhà nước phải tạo điều kiện và cơ chế thích hợp cho việc thực hiện sự đổi mới đó.

- Thực hiện đúng đắn và đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ và hiệp thương dân chủ trong tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân lao động, đòi hỏi phải nâng cao nhận thức trách nhiệm cho các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, các cán bộ, đảng viên, công chức và nhân dân về nội dung, bản chất của tập trung dân chủ và hiệp thương dân chủ, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện những nguyên tắc trên. Có nhận thức đúng mới có cơ sở để vận dụng thực hiện có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.

     Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa những nguyên tắc trên thành quy chế, quy định trong Đảng và pháp luật của Nhà nước cũng như trong điều lệ, nguyên tắc hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.

     Cần đầu tư thỏa đáng cho công tác nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn hoạt động lãnh đạo, công tác đảng, công tác quản lý nhà nước cũng như hoạt động, công tác của Mặt trận Tổ quôc và đoàn thể nhân dân, đặc biệt là vấn đề kết hợp nguyên tắc tập trung dân chủ và hiệp thương dân chủ, trên cơ sở đó tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: văn hóa chính trị

Hình thức tổ chức tập quyền – Hình thức tập quyền chuyên chế

     Tập quyền, phân quyền và hỗn hợp trong tổ chức quyền lực nhà nước theo “chiều ngang” khác với tập quyển, phân quyền và hỗn hợp trong tổ chức quyền lực nhà nước theo “chiểu dọc”. Trong tổ chức quyền lực nhà nước theo “chiều ngang”, tập quyền phản ánh ở sự thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp vào một cơ quan hay cá nhân; phân quyền được phản ánh ở sự phân lập các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp rồi trao cho những cơ quan khác nhau; còn hỗn hợp phản ánh ở nhấn mạnh nguyên tắc thống nhất quyền lực đồng thời có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

     Tổ chức quyền lực theo “chiều ngang” chỉ thể hiện đúng nghĩa ởcấp trung ương, dù đó là nhà nước liên bang hay nhà nước đơn nhất, còn ở địa phương thì không mang ý nghĩa này. Bởi vì, một nhà nước thì phải có tính thống nhất toàn lãnh thổ, có luật pháp chung do quốc hội ban hành và có hiệu lực trên toàn lãnh thổ nên các quy định có tính luật pháp ởcác bang hay các địa phương không được phép trái với pháp luật chung. Cơ quan chấp hành pháp luật của địa phương dù thực hiện theo các văn bản pháp luật của quốc hội bang hay hội đồng địa phương nhưng vẫn không được trái với pháp luật chung. Toà án được tổ chức ở các khu vực dù xét xử độc lập, nhưng cũng phải tuân thủ theo hiến pháp và pháp luật chung của nhà nước trung ương.

Hình thức tổ chức tập quyền

Các hình thc nhà nước tập quyn v cu trúc “chiu ngang”

     Trong lịch sử đã từng tồn tại nhiêu hình thức nhà nước tổ chức theo nguyên tắc tập quyển với những hệ quả khác nhau đối với quản lý và phát triển xã hội.

- Tập quyền chuyên chế, điển hình là chuyên chế phong kiến, với sự tập trung thống nhất cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vào cá nhân nhà vua. Quyền lực đoạt được trong thể chế tập quyền phong kiến mang tính kế truyền với sự hỗ trợ của niềm tin tôn giáo rằng quyền hành của vua là do ý Trời. Hiến pháp không tồn tại trong các thể chế tập quyền chuyên chế phong kiến. Tuy vậy, trong thể chế tập quyền phong kiến chuyên chế ngưòi ta vẫn thấy xuất hiện các bậc minh quân được thần dân yêu mến, đưa đất nước phát triển. Đó chính là lúc quyền lực chuyên chế không biến thành cực quyền mà chúng bị chế ước bởi hàng loạt chế định thành văn hoặc bết thành văn khác nhau như: gián quan (quan can gián), sử quan (quan chép mọi hành trạng và lời nói của vua), thái thượng hoàng (vua cha lùi vể tuyến sau để đào tạo vua con), triều nghị (hạ thần tấu nghị trước, hoàng đế quyết nghị sau) và phần nào cả thần quyền (ràng buộc vua với “dạo trời” của người có bổn phận là “cha mẹ” dân). Còn những thể chế nhà nước tập quyển phong kiến chuyên chế mà quyền lực không bị chế ước thường nhanh chóng dẫn tới cực quyền và đó là tiền đề của các cuộc khởi nghĩa nông dân hay chính biến trong nội bộ giai cấp phong kiến.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: thể chế chính trị việt nam

Quan hệ giữa Đảng và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

      Trong cơ cấu hệ thống chính trị nước ta, mới quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với Mặt trậnTổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị thể hiện với hai vai trò: về chính trị, Đảng là hạt nhân lãnh đạo; về tổ chức, Đảng là thành viên của hệ thống chính trị và là thành viên của Mặt trận. Sự lãnh đạo trong nội bộ Đảng được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây cũng là nguyên tắc được Đảng vận dụng trong lãnh đạo đối với Nhà nước và các đoàn thể chính trị xã hội cũng như đối với Mặt trận.

     Tuy nhiên, khi Đảng tham gia là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoạt động, công tác Mặt trận của Đảng với tư cách là tổ chức thành viên được thực hiện bằng sự phối kết hợp nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng với nguyên tăc hiệp thương dân chủ của Mặt trận. Sự lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị nói chung, trong dó có Mặt trận được thực hiện theo phương thức: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. 

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”. Cụ thể là, Đảng đề ra đường lối, chủ trương lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội mà Mặt trận cũng có trách nhiệm thực hiện; Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn Mặt trận và Đảng đoàn các tổ chức thành viên Mặt trận; Đảng tổ chức ra hệ thống chính trị mà Mặt trận là một thành tố; Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ nói chung, trong đó có cán bộ Mặt trận; Đảng có tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ đảng viên ngay trong hệ thống tổ chức Mặt trận. Tuy nhiên, khi là thành viên của Mặt trận, Đảng cũng bình đẳng như mọi thành viên khác của Mặt trận, phải gương mẫu thực hiện Điều lệ và Chương trình của Mặt trận. Đảng có trách nhiệm tập hợp và phản ánh các ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, làm công tác tuyên truyền, vận động đảng viên và nhân dân nói chung thực hiện Hiến pháp, pháp luật, thực hiện và thông báo kết quả thực hiện chương trình phối hợp và thông nhất hành động với Mặt trận… Mặt khác, theo nguyên tắc hiệp thương dânchủ của Mặt trận, vớitư cách là một tổ chức thành viên, Đảng có quyền thảo luận, chất vấn, phê bình và kiến nghị về tổ chức và hoạt động của ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên khác của Mặt trận, nhưng Đảng không quyết định, không áp đặt nguyên tắc tập trung dân chủ, không dùng uy quyền, dùng lợi thế của Đảng cầm quyền để ra mệnh lệnh, chỉ thị, bắt Mặt trận phải tuân theo. Lúc này đòi hỏi Đảng phải phát huy trí tuệ, bằng uy tín và kinh nghiệm của mình để thuyết phục ủy ban Mặt trận và các thành viên khác. Sự kết hợp thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng với nguyên tắc hiệp thương dân chủ của Mặt trận được thể hiện qua vai trò của Đảng đoàn Mặt trận (cấp trung ương và cấp tỉnh, thành phố), Đảng ủy và chi bộ tại các cơ quan ủy ban Mặt trận các cấp, thông qua việc phát huy vai trò đội ngũ đảng viên đang công tác trong hệ thống Mặt trận.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: văn hóa chính trị

Nguyên tắc hoạt động phù hợp nhất đối với Mặt trận

       Xét về nguyên tắc tổ chức và hoạt động, hệ thống chính trị nước ta bao gồm nhiều thành tố, nhiều tổ chức với những vị trí, chức năng, nhiệm vụ khác nhau, do đó có cách thức tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động cụ thể khác nhau, nhưng đểu thông nhất và hướng đến mục tiêu chung là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong hệ thống chính trị thì tổ chức Đảng, tổ chức Nhà nước và các đoàn thể nhân dân đều cổ đặc điểm của tổ chức là đồng nhất một chủ thể, nên phương thức hoạt động được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có nghĩa là mọi vấn đề có liên quan đều được dân chủ trao đổi bàn bạc, nhưng cuối cùng được thống nhất tập trung lại theo chế độ thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng Trung ương. 

Mặt trận

Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện ởĐiều 9, Chương II Điều lệ Đảng (2006). Nguyên tắc tập trung dân chủ cũng là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được quy định tại Điểu 6, Chương 1, Hiến pháp năm 1992. Đây cũng là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội và đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị. Riêng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì khác. Nét nổi bật của tổ chức Mặt trận là tính xã hội rộng rãi, tập hợp đông đảo mọi lực lượng của dân tộc trong hình thức một liên minh chính trị với nhiều đối tượng, thành phần tham gia, không đồng nhất một chủ thể. Với Mặt trận, yêu cầu quan trọng nhất là động viên mọi tổ chức, cá nhân nêu cao lòng yêu nước, tinh thần tự lực, tự cường, đoàn kết góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong Mặt trận, tinh thần chủ đạo là hòa hợp dân tộc, mở rộng đồng thuận và thu hẹp sự khác biệt, hướng tới tương lai. Vì vậy, phương thức, nguyên tắc hoạt động phù hợp nhất đối với Mặt trận là “tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phôi hợp và thông nhất hành động”. Nguyên tắc này được quy định tại Điểu 3 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bản chất của nguyên tắc này phản ánh tính hiệp thương dân chủ của nó.


Vai trò và nhiệm vụ của tổ chức mặt trận Tổ Quốc

     Đương nhiên, như vậy không có nghĩa là các tổ chức Đảng, tổ chức nhà nước, các đoàn thể nhân dân hoàn toàn chỉ thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, cũng như Mặt trận chỉ thực hiện hiệp thương dân chủ. Thực tế cho thấy, trong mới quan hệ giữa Mặt trận với các chức thành viên của nó, với Đảng và Nhà nước, nhân tố chi phổi là hiệp thương dân chủ dựa trên sự đồng thuận, hợp tác, thỏa thuận, tôn trọng và thuyết phục lẫn nhau.

     Tuy nhiên, trên phương diện tổ chức và hệ thống tổ chức, các cấp của Mặt trận với thiết chế bộ máy của ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp về hình thức tổ chức thì tuân theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, do hiệp thương dân chủ cử ra, nhưng khi vận hành tổ chức, hoạt động thì theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đó là tập thể bàn bạc, thảo luận và quyết định theo đa số, có phân công cá nhân phụ trách. Điều đó cho thấy, trong hệ thống chính trị nói chung và đối với Mặt trận nói riêng, có thành viên hoặc các thành viên có sự kết hợp vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ và hiệp thương dân chủ, tùy theo điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đặc điểm về tổ chức và hoạt động của mỗi tổ chức. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc thực hiện sự kết hợp hai nguyên tắc trên vẫn là vấn đề phức tạp và còn nhiều ý kiến khác nhau, còn nhiều vấn đểcần làm rõ nhất là việc phân biệt đâu là tập trung dân chủ, đều là hiệp thương dân chủ, đều là sựkết hợp, kết hợp như thế nào, đến đâu, làm thế nào dể có thể kết hợp, việc đánh giá hiệu quả thực tế của sự kết hợp đó rasao V.V..

mặt trận Tổ Quốc

     Ở nước ta, hầu hết các thành viên tham gia Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội –nghề nghiệp và đểu là những tổ chức độc lập, có tư cách pháp nhân, đều tồn tại với tư cách là một chủ thể độc lập, nằm trong một thể chế chính trị thống nhất, do Đảng lãnh đạo. Tất cả các tổ chức thành viên và các cá nhân tham gia Mặt trận đều tự nguyện thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng và tuân thủ pháp luật của Nhà nước. Các tổ chức này đều thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ với những cơ chế và hình thức linh hoạt khác nhau. Điều đó làm cho mỗi tổ chức độc lập có đủ sức mạnh, uy tín và khả năng thực hiện nhiệm vụ của mình trong tổng thể nhiệm vụ, mục tiêu chung của hệ thống chính trị. Mặt khác, khi tham gia là thành viên Mặt trận Tổ quốc, bên cạnh việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ với tư cách là tổ chức độc lập trong hệ thống chính trị, mỗi tổ chức lại tuân theo Điều lệ Mặt trận Tổ quốc và thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Điều đó không làm mất đi tư cách của một tổ chức độc lập, trái lại, nó càng làm phong phú, tăng thêm uy tín sức mạnh và hiệu quả hoạt động của tổ chức tham gia là thành viên Mặt trận Tổ quốc. Điểu lệ Mặt trận Tổ quốc đã quy định về mối quan hệ giữa các thành viên, dù là tổ chức, đơn vị nào, khi tham gia Mặt trận Tổ quốc đều bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ của Mặt trận Tổ quốc, thì các thành viên thực hiện sự phối hợp, thống nhất hành động theo những vần đề đã đạt được đồng thuận. Trong lúc thực hiện nhũng vấn đề chung, các thành viên vẫn hoạt động theo chương trình, điều lệ của tổ chức mình. Trong việc thảo luận các vấn đề chung tại Mặt trận thì tiến hành hoàn toàn dân chủ, nhưng không quyết định theo đa số mà phải đạt được sự đồng thuận. Trong trường hợp không đạt được sự đồng thuận thì các chủ thể tham gia quyết định, trong lúc phối hợp thống nhất hành động, chỉ thực hiện những điểm, những vấn đề đã nhất trí theo nguyên tắc “Khi phối hợp và thống nhất hành động, các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuân theo Điều lệ của Mặt trận Tô quốc Việt Nam , đổng thời vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình”. Trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, quan hệ cấp trên với cấp dưới không phải là quan hệ lãnh đạo, quản lý hoặc mệnh lệnh hành chính, mà là quan hệ hướng dẫn, kiểm tra, phối hợp hoạt dộng. Về tính chất hoạt động, hoạt động của Mặt trận mang tính xã hội, tính quần chúng rộng rãi, tính tự nguyện, tự quản và tự chủ cao, tính tư vấn, vận động, thuyết phục là chính.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: quyền lực chính trị ở việt nam

Đảng là một thành viên của Mặt Trận Tổ quốc

     Như vậy, khi Đảng là thành viên của Mặt trận, trong khi thực hiện Điều lệ, Chương trình công tác của Mặt trận, tuân thủ nguyên tắc hiệp thương dân chủ, Đảng vẫn duy trì và giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt Đảng cũng như trong thực hiện vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và các đoàn thể chính trị – xã hội. Nhờ đó đã phát huy được mọi tiềm lực sáng tạo của các lực lượng cách mạng, sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng và toàn xã hội, tạo nên sức mạnh của một Đảng cách mạng.

     Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo hệ thống chính trị trước đổi mới vẫn xảy ra tình trạng tập trung quan liêu, không tôn trọng ý kiên cấp dưới, Đảng bao biện làm thay công việc của Nhà nước vàcác đoàn thể quần chúng, không phát huy trí tuệ tập thể, hoặc tìnhtrạng cục bộ, phân tán, vô kỷ luật… dẫn tới vừa khô phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa làm gì hiệu quả quản lý của Nhà nước và không khuyến khích được tinh thần chủ động, sáng tạo của các tổ chức quần chúng. Điều đó đòi hỏi phải khắc phục đồng thời và lo khuynh hướng: hoặc là mất dân chủ, tập trung quan liêu không tôn trọng ý kiến của tập thể và cấp dướihoặc buông lỏng kỷ cương, vô tổ chức, vô kỷ luật, tùy tiện hành động theo ý mình, phân tán, cục bộ, bè phái, coi thường tổ chức và cấp trên… 

Mặt Trận Tổ quốc

Để giải quyết tình trạng trên, một mặt Đảng ta theo dõi có phê phán ý kiến của một sốđảngở cácnước khác về nguyên tắc tập trung dân chủ rút kinh nghiệm và nghiên cứu những bài học từ sự tan rã của Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu kiên quyết bác bỏ những luận điệu xuyên tạc đòi từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ; mặt khác, tiến hành phê bình và tư phêbình nghiêm túc, khảo sát, phân tích kỹ những sai phạp lệch lạc trong nhận thức và hoạt động của tổ chức Đảng cơ quan nhà nước các cấp. Trên cơ sở đó, trong nhận thức và quan điểm, Đảng ta tiếp tục khẳng định kiên trì giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là nguyên tắc cơ bản nhất trong tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước ta. Để thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ ngoài việc phải có nhậnthức đúng, tinh thần và thái độ nghiêm túc, vấn đề đặt ra là cần cụ thể hóa nguyên tắc trên thành các quy chế, quy định trong việc xây dựng  và ban hành các nghị quyết, quyết định, trong công tác tổ chức – cán bộ và trong sinh hoạt của các tổ chức đảng các cơ quan nhà nước; gắn quyền và trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách theo nguyên tắc thẩm quyển càng lớn, trách nhiệm càng cao, không một tổ chức và cá nhân nào đứng ngoài sự kiểm soát của kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước, có đặc quyền miễn trừ, trốn tránh trách nhiệm khi có vi phạm. Vấn đề này chúng ta đã và đang làm, gắn vớicuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng và xây dựng Nhà nước pháp quyền, đổi mới hệ thống chính trị.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: van hoa chinh tri

Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của nhà nước Việt Nam

     Trong việc thực hiện sựkết hợp nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng với hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận cũng đang đặt ra một số vấn đề cần quan tâm giải quyết, cả về nhận thức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn, về nhận thức, trong Đảng cũng như trong Mặt trận hiện nay vẫn chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa Đảng vừa là thành viên Mặt trận, vừa là lãnh đạo Mặt trận.

nguyên tắc tập trung dân chủ

     Được coi là thành viên Mặt trận nhưng cả bản thân Đảng và trong nhìn nhận của Mặt trận và xã hội, Đảng vẫn chưa ở vị trí bình đẳng như các thành viên khác, trái lại, vẫn đứng ở vị trí trên Mặt trận, chưa thực sự phát huy đầy đủ vai trò, chức năng của Mặt trận, về thực tiễn, một trong những khuyết điểm, yếu kém trong lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận cũng như trong tổ chức hoạt động của Mặt trận hiện nay là ở chỗ không thường xuyên thực hiện hiệp thương dân chủ, chỉ nhìn nhận vấn đề này như một việc làm nhất thời, mang tính “mùa vụ”, mới khi đến kỳ chuẩn bị bầu cử các cơ quan đại biểu của dân. Hiệp thương đôi khi được thực hiện một cách hình thức, mang tính thủ tục, thiếu sự phối hợp và thống nhất hành dộng, không ít việc cuối cùng đều do Đảng định sẵn và quyết định, không phản ánh được đầy đủ ý chí và nguyện vọng của các đoàn thể và Mặt trận. Khắc phục vấn đề này trách nhiệm trước hết thuộc về sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự nỗ lực tự đổi mới của Mặt trận, trong đó có sự đổi mới của các tổ chức thành viên.

     Trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và hiệp thương dân chủ nước ta nổi lên một vấn đề cần làm rõ, đó là quan hệ phối hợp hoạt động giữa Nhà nước với Đảng Cộng sản cầm quyền và các tổ chức chính trị – xã hội, các đoàn thể nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: thể chế chính trị việt nam

Nguyên tắc tập trung dân chủ

     Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, nguyên tắc tập trung dân chủ là một chỉnh thể hữu cơ thống nhất, không thể tách rời giữa tập trung và dân chủ. Hai yếu tố đó vừa là điều kiện, vừa là tiền đề của nhau. Không thể có dân chủ nếu tách rời nó với tập trung. Sự yếu kém, lỏng lẻo của tập trung sẽ làm suy yếu và triệt tiêu dân chủ, là mảnh đất màu mỡ cho tình trạng vô chính phủ, vô kỷ luật, dân chủ cực đoan, quá trớn, không thể kiểm soát.

      Ngược lại, tập trung thoát ly dần chủ, không dựa trên cơ sở dân chủ sẽ không có hiệu quả, hoặc bị biến dụng thành quan liêu, độc đoán chuyên quyền… Với ý nghĩa đó, V.I. LAnin chỉ rõ: “Chế độ tập trung dân chủ, một mặt thật khác xa với chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và mặt khác, khác xa với chủ nghĩa vô chính phủ” đó là: “chế độ trung hiếu theo nghĩa thực sự dân chủ”. Thấm tinh thần đó, xuất phát từ thực tiễn cách mạng Nam, Hồ Chí Minh có cách diễn đạt độc đáo, sáng tạo bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ.

Nguyên tắc tập trung dân chủ

 Trong bài viết, bài nói của mình, Hồ Chí Minh có khi “dân chủ tập trung”, có khi dùng “tập trung dân chủ” Người giải thích: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cán bộ phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân trức trách, tức là dân chủ tập trung”. Khi nhấn mạnh vậy có dân chủ thì Người dùng phạm trù “dân chủ tập trung còn khi nhấn mạnh vấn đề tập trung Người dùng phải “tập trung dân chủ”. “Tập trung dân chủ” hay “dân chủ tập trung” mà Hồ Chí Minh thường dùng có sự khác nhau ở cách nói, cách viết, nhưng có nội hàm thống theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nguyên tắc tập trung dân chủ. Đó là hai mặt của cùng một vấn đề, không thể tách rời, không thể đối lập với nhau. Chúng chỉ tồn tại và có ý nghĩa, có giá trị khi ở cạnh nhau, thâm nhập vào nhau, quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau trong một nguyên tắc, tuy chúng có sự khác biệt về vị trí, vai trò, chức năng, tác dụng, tập  trung không đối lập với dân chủ, trái lại, tập trung phải cần tới dân chủ, dựa trên dân chủ, coi dân chủ làm cơ sở là mục đích và thói phường hội. Trong mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị, dân chủ cũng rất cần có tập trung như một bảo đảm tất yếu, không thể thiếu. Dân chủ không đối lập với tập trung, mà chỉ đối lập với quan liêu, chuyên chế, gia trưởng, độc tài. Tập trung dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nguyên tắc để thực thi dân chủ, đồng thời đó cùng là một nhân tố không thể thiếu của cơ chế thực hiện dân chủ trong hệ thống chính trị và thực hiện dân chủ hóa xã hội ở nước ta nói chung.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: quyền lực chính trị ở việt nam

Hiệp thương dân chủ

     Thuật ngữ “hiệp thương dân chủ” lần đầu tiên được chính thức sử dụng trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” khi nói về phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

     Xét về mặt ngữ nghĩa, hiệp thương dân chủ được ghép từ hai khái niệm “hiệp thương” và “dân chủ”. Theo Từ điển tiếng Việt, hiệp thương có nghĩa là họp, thương lượng những vấn để chính trị, kinh tế có liên quan chung tới các bên. Như vậy, hiệp thương dán chủ được hiểu là những cuộc họp, thương lượng, thởa thuận có liên quan chung đến các bên một cách dân chủ.

Hiệp thương dân chủ

     Trong thực tế đang tồn tại ba cách hiểu về hiệp thương dân chủ, đó là: 1. Hiệp thương chính trị; 2. Hiệp thương mang tính dân chủ; 3. Hiệp thương giữa đảng lãnh đạo, cầm quyền với các tổ chức, đảng phái dân chủ. Theo cách hiểu thứ nhất, hiệp thương dân chủ đồng nghĩa với hiệp thương chính trị là thuật ngữ được sử dụng trong Hội nghị bàn bạc thông nhất đất nước giữa hai miền Nam – Bắc và tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Ba khóa VII (6/1991) khi đề cập về phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc. Tuy nhiên, so với thuật ngữ hiệp thương chính trị thì thuật ngữ hiệp thương dân chủ có phạm vi và đối tượng đề cập rộng hơn, có thể bao hàm cả nội dung kinh tế. Theo cách hiểu thứ hai, hiệp thương dân chủ chỉ nguyên tắc, phương thức hoạt động, nghĩa là toàn bộ hoạt động của một tổ chức đều theo nguyên tắc, cách thức, phương pháp hiệp thương dân chủ, như quy định về hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Theo cách hiểu thứ ba, hiệp thương dân chủ chỉ một chế độ, một thể chế chính trị, quy định mới quan hệ giữa đảng lãnh đạo, cầm quyền với các tổ chức, đảng phái dân chủ khác, như chế độ hiệp thương dân chủ gắn với hợp tác đa đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở Trung Quốc.

     Cũng giống như nguyên tắc tập trung dân chủ, hiệp thương dân chủ mang tính phổ quát, được thực hiện trong đời sống chính trị – xã hội nhằm điều hòa, điều chỉnh những sự khác biệt, mâu thuẫn và lợi ích khác nhau giữa các giai tầng, các nhóm người trong xã hội, trên cơ sở đó tìm ra sự đồng thuận và tiếng nói chung để duy trì sự ổn định và phát triển xã hội. Với mọi loại hình tổ chức mang tính tự nguyện hay quyền lực, bên cạnh việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, đều phải sử dụng phương thức hiệp thương dân chủ, bàn bạc thương lượng, thỏa thuận để đi đến sự nhất trí trong nhận thức và hành động. Vì vậy, hiệp thương dân chủ không chi là một cách thức thực hiện dân chủ, là một tiêu chí, thước đo trình độ dân chủ, mà còn là cách thức đi tới sự bập trung, biểu hiện mức độ tập trung, thống nhất của một tô chức, một chế độ xã hội.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: văn hóa chính trị

Thực tiễn của hiệp thương dân chủ

     Mặt khác, tuy mang tính phổ quát, song trong thực tiễn hiệp thương dân chủ được thực hiện rất phong phú, da dạng về tính chất, nội dung và mô hình tổ chức, tùy theo đặc điểm về thể chế chính trị, hệ thống chính trị và những điêu kiện về kinh tế – xã hội, văn hóa, lịch sử, tương quan so sánh lực lượng ở mỗi nước tại mỗi thời điểm. Chẳng hạn, việc nhận thức và thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chu trong thể chế tư bản chủ nghĩa khác với thể chế xã hội chủ nghĩa, trong thể chế chính trị đa đảng khác với thể chế một đảng cầm quyền.

     Ngay trong cùng một thể chế chính trị những với mô hình tổ chức liên minh chính trụ khác nhau thì tổ chức hiệp thương dân chủ cũng khác nhau. Cùng là thể chế chính trị một đảng cầm quyền nhưng mô hình hiệp thương dân chủ của Trung Quốc khác với Việt Nam. Ở nước ta, hiệp thương dân chủ trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng khốc Với hiệp thương dân chủ trong cách mạng xã hội chủ nghìn hay trong thời kỳ đổi mới. Điều đó cho thấy, việc tiếp cận vấn đề hiệp thương dân chù không nôn chỉ dừng lọi ở nguyên tắc chung, là phải được xem xét một cách cụ về nội dung, hình thức, cách thức thực hiện căn cứ vào điều kiện và đặc điểm của từng quốc gia, từng tổ chức trong những thời điểm lịch sử nhất định.
Thực tiễn của hiệp thương dân chủ


Mối quan hệ giữa tập trung dân chủ và hiệp thương dân chủ

    Tập trung dân chủ và hiệp thương dân chủ là những nguyên tắc được sử dụng trong đời sống chính trị – xả hội, đặc biệt là trong tổ chức và hoạt động của các bộ phận cấu thành hệ thông chính trị với những quy mô và mức độ khác nhau. Giữa chúng vừa có những điểm tương đồng, vừa có những khác biệt. Làm rõ những điểm này sẽ giúp hoạt động thực tiễn được đúng đắn và hiệu quả hơn.

     Thứ nhất, hai khái niệm tập trung dân chủ và hiệp thương dân chủ đểu có chung thành tố “dân chủ”, tức là đều gắn với “quyền lực của nhân dân”. Điều đó hàm nghĩa tập trung dân chủ và hiệp thương dân chủ đều có mục đích, mục tiêu giống nhau, đều là những công cụ, tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân. Tuy nhiên, trong khái niệm tập trung dân chủ thì dân chủ là mục tiêu, tập trung là điều kiện, cách thức, phương pháp đảm bảo cho dân chủ được thực thi một cách thực chất, hạn chế sự quan liêu, độc đoán, chuyên quyền cũng như tình trạng vô Chính phủ. Còn trong khái niệm hiệp thương dân chủ thì dân chủ là mục tiêu, mục đích, hiệp thương là cách    thức, phương tiện để đạt tới dân chủ đồng thuận.


Từ khóa tìm kiếm nhiều: van hoa chinh tri

Thực chất mỗi quan hệ giữa tập trung dân chủ và hiệp thương dân chủ

     Thứ hai, tập trung dân chủ và hiệp thương dân chủ đều là những công cụ, phương thức vận hành, điều chỉnh quyền lực nhưng do có tính chất, đặc điểm khác nhau nên nội dung, cách thức, phương pháp tiến hành khác nhau, cả hiệp thương dân chủ và tập trung dân chủ cuối cùng đều phải đi đến sự tập trung, thông nhất về ý chí và hành động.

      Sự khác nhau chỉ là cách thức thực hiện và mức độ đạt được. Trong tập trung dân chủ có sự phân định rất rành mạch, chặt chẽ một sức mạnh mang tính quyển uy: cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, tuân thủ chấp hành mệnh lệnh, chỉ thị, quyết định của tổ chức, của người có thẩm quyển. Nó đòi hởi sự nhất trí cao cả về tư tưởng và hành động thông qua những biện pháp tổ chức mạnh mẽ, cứng rắn, mang tính chế tài. Trái lại, trong hiệp thương dân chủ không có những quy định mang tính quyền uy, chế tài, mệnh lệnh, chỉ thị, không có sự áp đặt chấp hành, thừa hành, không có việc ai đó ra quyết định buộc những người khác phải tuân thủ. Đặc trưng của hiệp thương dân chủ là phát huy sức mạnh tuyên truyền, vận động, thuyết phục một cách khéo léo, tinh tế, mềm dẻo, có lý có tình, thông qua thảo luận, tranh luận, bàn bạc, cùng nhau đi đến đồng thuận, nhất trí, thỏa thuận, trên cơ sở đó cùng phối hợp thực hiện những cái đã thởa thuận một cách dân chủ.

tập trung dân chủ và hiệp thương dân chủ

     Thứ ha, giữa hiệp thương dân chủ và tập trung dân chủ có mới liên hệ tương hỗ, cùng tác động dến quá trình dân chủ hóa xã hội. Tập trung dân chủ được duy trì và giữ vững sẽ góp phần phát huy dân chủ, bảo đảm ổn định thể chế chính trị – xã hội, tạo cơ sở vững chác vồ lợi thế để đảng cầm quyền hiệp thương dân chủ với đại diện các giai cấp, tầng lớp xã hội trong việc giải quyết mâu thuẫn, điều hòa lợi ích, hạn chế xung đột xã hội. Ngược lại, thực hiện tốt hiệp thương dân chủ sẽ giúp tập trung dân chủ được đúng đắn, phù hợp, làm phong phú, da dạng hóa các hình thức và cơ chế thực thi dân chủ trong xã hội.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: thể chế chính trị việt nam

Hệ thống chính trị của nước Việt Nam

     Hệ thống chính trị là khái niệm dùng để chỉ một chỉnh thể các thiết chế, tổ chức chính trị – xã hội hợp pháp của chủ thể cầm quyền nhằm tác động vào các quá trình kinh tế – xã hội để hiện thực hóa mục tiêu chính trị mà chủ thể cầm quyền đặt ra.

     Xét về mặt kết cấu tổ chức, hệ thống chính trị của các nước hiện nay nói chung bao gồm: các đảng chính trị hợp pháp, mà quan trọng nhất là đảng (hay liên minh một số đảng) cầm quyền; nhà nước; các tổ chức chính trị – xã hội. ở nước ta hiện nay, hệ thống chính trị bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội của nhân dân (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam).

Hệ thống chính trị của nước Việt Nam

     Trong hệ thống đó, Đảng vừa là một bộ phận cấu thành, vừa là “hạt nhân” lãnh đạo, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Nhà nước pháp quyển của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, có chức năng thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, quản lý đất nước, bảo đảm độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đảng phái, các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu cho các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện phản biện, giảm sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Các tổ chức chính trị – xã hội (còn gọi là đoàn thể nhân dân) do nhân dân lập ra để quy tụ, huy động mọi thành viên trong xã hội nhằm thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời tham gia tích cực vào công việc nhà nước và xã hội, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

     Xét về chức năng và cơ chế thực hiện, hệ thống chính trị là cơ chế bảo đảm quyền lực của chủ thể cầm quyền. Trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân là chủ thể duy nhất của mọi quyền lực. Vì vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh xây dựng đất nước đã xác định: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Hệ thống chính trị được vận hành theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhốn dân làm chủ”.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: văn hóa chính trị là gì

Hoàn thiện dân chủ xã hội chủ nghĩa

-  Dân chủ xã hội chủ nghĩa không phủ định, đối lập, mà phải bao hàm trong nó việc tiếp thu và phát triển các giá trị của nhân loại về dân chủ, trong đó có dân chủ tư sản. Đương nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc áp dụng máy móc các hình thức dân chủ ở nước ngoài vào nước ta.

-Xây dựng và hoàn thiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài và gian khổ nên không thể nóng vội, thoát ly thực tiễn đất nước. Điểu đó đòi hởi phải đẩy mạnhnghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn dể tìm ra và hoàn thiện các hình thức thực hiện dân chủ một cách thực chất, đúng hướng, hiệu quả. Phải chú trọng thực hiện dAn chủ hóa ở tất cả các lĩnh vực, cốc cấp độ, từ cốc cơ quan lãnh đạo cao nhất của đất nước đến cấp cơ sở, trong đó quan trọng nhất là cấp cơ sở. Hoàn thiện cả dân chủ trực tiếp và dân chủ thông qua đại diện.

-  Trong quá trình xây dựng và thực hiện dân chi cần chống các biểu hiện lệch lạc như dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan tách ròi kỷ cương, pháp luật hoặc lợi dụng dân chủ để làm tổn hại đến lợi ích Nhà nước và công dân…

Hoàn thiện dân chủ

-  Trên cơ sở những phát triển mới trong nhận thức chung vềdân chủ và dân chủ hóa, Đảng ta đã đi sâu làm sáng tở một số vấn đề liên quan như: vềnguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước, về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, về các điều kiện xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa V.V..

Tập trung dân chủ

    Tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc mácxít cơ bản và then chốt được áp dụng trong xây dựng và vận hành của tổ chức đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Để làm rõ vấn đề này cần nhận thức rõ khái niệm “tập trung” và khái niệm “dân chủ”, quan hệ và sự kết hợp giữa tập trung và dân chủ trong hoạt động chính trị thực tiễn.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: thể chế chính trị việt nam

Dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa

Dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa

    Dân chủ là một hiện tượng lịch sử – xã hội, gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người và xã hội loài người. Dân chủ theo nghĩa gốc của từ Hy Lạp cổ – Democratos(trong đó Demos là nhân dân, Cratos là quyền lực) – có nghĩa là quyền lực của nhân dân, thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực.

    Trong tiếng Việt, “dân chủ” có ba hàm nghĩa: thứ nhất, để chỉ một chế độ; thứ hai, để chỉ quyền của người dân (tương đương với nghĩa gốc); thứ ba, chỉ một phương thức công tác.

dân chủ xã hội chủ nghĩa

    Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp và xuất hiện nhà nước, dân chủ biểu hiện thông qua chê độ nhà nước, thành chê độ dân chủ hay nền dân chủ. Nó là hình thức tô chức quyền lực nhà nước dựa trên nguyên tắc nhốn dân là chủ thể duy nhất của mọi quyền lực. Tuy nhiên, do xuât hiện trong điều kiện xã hội có giai cấp nên củng giống như nhà nước, dân chủ trước hết và chủ yốu là một phạm trù chính trị, mang tính giai cấp và phục vụ giai cấp thống trị. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cho răng dân chủ luôn mang tính giai cấp, không có dân chủ thuần túy”, dân chủ nói chung. Các chế độ dân chủ trước đây, trong đó có dân chủ tư sản, là dân chủ của thiểu số bóc lột. Chỉ từ khi giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động làm cách mạng vô sản lật đổ chủ nghĩa tư bản và trở thành giai cấp cầm quyền thì một nền dân chủ mới xuất hiện, đó là dân chủ xã hội chủ nghĩa. Khác với dân chủ tư san dựa trên nền tảng kinh tế là sở hữu tư nhân với sự chiêm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và quan hệ giai cấp đối kháng giữa tư sản và vô sản, dân chù xãhội chủ nghĩa dựa trên nền tảng kinh tê là chế độ sở hữu xãhội, tức là chế độ công hữu vềtư liệu sản xuất và sự thống nhất vềlợi ích của đa sô các giai cấp, cốc tầng lớp dân cư do giai cấp công nhân đại diện. Vì vậy, dân chủ xả hội chu nghĩa là dân chủ cho sô” đông những người lao dộng, khốc về bản chất so với dân chủ tư sản. Dân chủ xã hội chu nghĩa vừa là tiền đề, vừa là mục tiêu và động lực của cáchmạng xã hội chủ nghĩa.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: văn hóa chính trị

Nhân dân thực hiện quyền làm chủ

     Kế thừa và phát triển, vận dụng sáng tạo tư tường về dân chủ của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện Việt Nam, Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ không tách rời với quyển làm chủ của nhân dân, coi “dân là gốc”, “dân là chủ”, gắn liền với việc dân phải biết hưởng quyền làm chủ, phải biết dùng quyền làm chủ. Người khẳng định:

“NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyển hạn đểu của dẫn.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, quyển hành và lực lượng đều ở nơi dân” ‘.

Nhân dân thực hiện quyền làm chủ

     Để thực hiện quyền làm chủ, nhân dân không những phải có quyền, mà điều quan trọng là cần phải có năng lực làm chủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”. Muôn vậy, Đảng và Nhà nước phải tạo ra cơ chế thích hợp và những điều kiện cần thiết để người dân có được nhũng yếu tố cơ bản để có thể làm chủ thực sự.

    Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, trong thời kỳ đổi mới Đảng ta xác định xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những mục tiêu lớn của cách mạng nước ta, đồng thời là một nội dung quan trọng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đãcó những nhận thức mới vê dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát huy dán chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền, thể hiện trên nhũng nội dung sau:

-  Quan niệm về dân chủ được mở rộng. Dân chủ dược xem xét theo nhiều khía cạnh: dân chủ vừa là chê độ chính trị, vừa là giá trị, là phương thức và nguyên tắc tô chức xã hội. Dân chủ có nội dung toàn diện, bao quát mọi lĩnh vực đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, từ các mới quan hệ giữa con người với con người đến quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công dân với Nhà nước, với tổ chức và thể chế hiện hành…



Từ khóa tìm kiếm nhiều: van hoa chinh tri

Tập trung và dân chủ là những yếu tố tất yếu

     Trước hết, về lý luận cần khẳng định, tập trung và dân chủ là những yếu tố tất yếu, là đòi hởi khách quan để hình thành tổ chức và hoạt động của con người trong đời sống thực tiễn. Bản chất hoạt động của con người, dù với tư cách cá nhân hay tập thể, cũng đều mang tính chất xã hội, được xã hội hóa, đòi hởi phải có sự tương tác, phối hợp, liên kết và sự phân công theo vị trí, vai trò và khả năng, nói cách khác là phải được tổ chức và quản lý.

     Những hoạt động mang tính cộng đồng, có đông người tham gia, được tổ chức, gắn với hoạt động quản lý và tự quản, đương nhiên đòi hởi phải có sự phân công và hợp tác, do đó rất cần đến yếu tố tập trung và dân chủ. Tập trung ở đây được hiểu là sự tập hợp, quy tụ trí tuệ, sức mạnh, tạo thành hợp lực thống nhất trong suy nghĩ và hành động vì mục tiêu chung trên cơ sởphát huy quyển dân chủ của các thành viên trong tổ chức. đó là thuộc tính bản chất của lãnh đạo, quản lý, biểu hiện ở ý chí, sức mạnh của chỉ huy, ra quyết định và tổ chức thực thi những quyết định đó. Cần đến tập trung vì quản lý một hoạt động phôi hợp nào đó của số đông đòi hởi phải có sự chỉ huy, điều khiển, quyết định và chịu trách nhiệm bởi một chủ thể có thẩm quyền, cần đến dân chủ vì trong hoạt động có tể chức cần có sự thông nhất về mục tiêu, hiểu rõ chức nàng, nhiệm vụ và sự phân công hợp tác, phôi hợp giữa các thành viên, các cá nhân, nhóm và tập thể trên cơ sở bàn bạc, thảo luận dân chủ để đạt đến sự đồng thuận, nhất trí trong nhận thức và hành động. Như vậy, ở đâu có hoạt động phối hợp chung, có tổ chức và điều khiển sự phối hợp hoạt động, ở đó cẩn tập trung và cũng cần dân chủ. Nó kết hợp thành chế độ tệp trung và chế độ dân chủ.

Tập trung và dân chủ

    Tuy nhiên, đòi sống xã hội và hoạt dộng của con người là vô cùng đa dạng và phong phú về cốc mặt: nhu cầu, lợi ích, động cơ, năng lực, thái độ và hành vi…, trong đó đồng quan tâm và nhạy cảm nhất là vấn đề nhu cáu và lợi ích.

    Giữa chúng vừa có sự khác biệt, mâu thuẫn, vừa có sự tương đồng, thống nhất. Sức mạnh của một cộng đồng, một xã hội, sự liên kết gắn bó giữa các thành viên trong một tổ chức có được duy trì, phát huy đầy đủ hay không còn tùy thuộc vào việc nhận thức và giải quyết mới quan hệ giữa lợi ích, nhu cầu phát triển của từng cá nhân, từng thành viên trong tổ chức với lợi ích, nhu cầu phát triển chung của tổ chức, của cộng đồng và xã hội cả trước mắt và lâu dài. Đó cũng là cơ sở để thực hiện tập trung vè dân chủ trong tổ chức, trong xã hội.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: văn hóa chính trị là gì